Phẫu thuật nội soi điều trị nang ống mật chủ
Phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ đã trở thành kỹ thuật thường quy trong điều trị nang ống mật chủ ở nhiều bệnh viện lớn. Quy trình phẫu thuật này cho thấy được sự ưu việt và dần thay thế các phương pháp mổ mở truyền thống trong điều trị nang ống mật chủ.
1. Nang ống mật chủ
Nang ống mật chủ là tình trạng giãn ống mật chủ bẩm sinh - đường dẫn mật từ gan xuống ruột non. Gan sản xuất mật để giúp tiêu hoá thức ăn. Khi bị nang ống mật chủ sẽ làm cho dịch mật bị ứ đọng lại trong nang, gây viêm mật, hình thành sỏi và có thể dẫn đến tắc mật, lúc này mật sẽ bị giữ lại trong gan.
Nang ống mật chủ có thể hình thành trong một phần của ống mật bên trong gan hoặc bên ngoài gan. Có nhiều loại nang ống mật chủ và chúng được phân loại dựa vào nơi chúng xuất hiện.
- Loại 1. Nang ống mật chủ ngoài gan có dạng túi hoặc hình thoi. Loại này chiếm tới 90% tất cả u nang ống mật chủ.
- Loại 2. Là các nang ống mật chủ dạng túi thừa bị cô lập nhô ra từ thành của ống mật chủ. Loại này, thông với ống mật chủ bởi ống nối hẹp.
- Loại 3 (choledochocelle). Đây là nang ống mật chủ phát sinh từ phần thấp của ống mật chủ.
- Loại 4. Nang trên cả hai ống mật chủ và ngoài gan.
Biểu hiện của bệnh nang ống mật chủ
Ở trẻ sơ sinh bị nang ống mật chủ có thể có biểu hiện rõ rệt như: vàng da . Trẻ sơ sinh thường bị tắc nghẽn đường mật không liên tục hoặc các đợt viêm mật, viêm tụy tái phát với những đặc điểm như:
- Tắc nghẽn đường mật: Có thể sờ thấy khối góc phần tư phía trên bên phải và có dấu hiệu vàng da
- Biểu hiện ban đầu của viêm tụy. Tình trạng này có thể gây khó khăn cho chẩn đoán bệnh bởi vì chỉ có các cơn đau bụng liên tục. Điều này là do nồng độ amylase và lipase tăng cao dẫn đến sai lệch trong chẩn đoán bệnh.
- Ở người lớn, dấu hiệu điển hình khi bị nang ống mật chủ là đau bụng, vàng da và sờ thấy khối u bụng trên bên phải. Tuy nhiên, những dấu hiệu này chỉ được tìm thấy ở 10-20% những người bị bệnh. Vì vậy, cơn đau bụng ở người lớn cần được chẩn đoán có thể đau vùng thượng vị hoặc đau hạ sườn phải. Có thể kèm theo triệu chứng khác như viêm da hoặc viêm đường mật
Trẻ bị nang ống mật chủ có biểu hiện vàng da
2. Phẫu thuật nội soi điều trị nang ống mật chủ
Phẫu thuật nội soi nang ống mật chủ là quy trình phẫu thuật cắt bỏ u nang ống mật chủ và lập lại lưu thông đường mật bằng kỹ thuật nối ống gan chung-hỗng tràng.
Quy trình phẫu thuật:
Phẫu thuật cắt nang ống mật chủ, nối ống gan chung với hỗng tràng
Trước phẫu thuật: Người bệnh sau khi được khám và chẩn đoán xác định nang ống mật chủ, thì bác sĩ cần giải thích để cho người bệnh biết được lợi ích của phẫu thuật nội soi cho cắt bỏ nang ống mật là vô cùng quan trọng. Đồng thời, đây là phương pháp có hiệu quả cao trong điều trị bệnh. Ngoài ra, người bệnh còn được kiểm tra và xét nghiệm cần thiết phục vụ cho quá trình phẫu thuật như: xét nghiệm cơ bản, xét nghiệm amylase máu và niệu, bilirubin máu, ...
Phẫu thuật: Người bệnh được gây mê nội khí quản. Đầu tiên, bác sĩ sẽ đặt trocar. Tiếp đến bác sĩ sẽ kiểm tra tình trạng của gan và nang ống mật chủ rồi giải phóng túi mật. Tuy nhiên, do kích thước nang to, bác sĩ có thể mở túi mật và bút bớt dịch. Sau đó lập lưu thông mật ruột theo kiểu Roux-en-Y với miệng nối ống gan chung-hỗng tràng.
Sau phẫu thuật: Kiểm tra toàn bộ ổ bụng.
Hiện tại có 2 kỹ thuật nội soi trong điều trị nang ống mật chủ:
- Phẫu thuật nội soi thông thường: bệnh nhân sẽ có 4 - 5 vết mổ nội soi nhỏ trên ổ bụng để tiến hành phẫu thuật
- Phẫu thuật nội soi 1 lỗ không để lại sẹo: là kỹ thuật tiên tiến nhất hiện nay để điều trị bệnh nay. Thay vì có 4 - 5 vết mổ nội soi nhỏ thì trong phẫu thuật này cả cuộc mổ chỉ diễn ra qua 1 vết rạch da tại rôn. Cho tới nay PGS Trần Ngọc Sơn - Trưởng khoa Phẫu thuật nhi BV Xanh Pôn là người duy nhất ở Việt Nam có thể thực hiện được phẫu thuật nay.
Một số tai biến có thể gặp trong và sau phẫu thuật:
- Chảy máu. Trường hợp này có thể xảy ra khi bóc tách để giải phóng nang ống mật chủ. Hoặc trong quá trình phẫu thuật làm tổn thương tĩnh mạch cửa. Xử trí tình huống này cần tìm nguyên nhân gây chảy máu đồng thời khâu cầm máu ngay hoặc khâu chỗ rách tĩnh mạch cửa.
- Rò miệng nối. Sau khi phẫu thuật khoảng 4-5 ngày mà vẫn thấy mật chảy qua đường ống dẫn lưu dưới gan hoặc thấm qua băng của vết mổ thì cần phải nhờ nhân viên y tế can thiệp. Trường hợp này sẽ xử trí bằng cách quan sát lượng dịch rò qua dẫn lưu và bồi phụ nước-điện giải. Vết rò thường tự liền sau 10-15 ngày. Tuy nhiên, nếu miệng nối không liền lại thì cần phải phẫu thuật để làm lại miệng nối.
- Viêm phúc mạc do bục miệng nối. Xử trí bệnh này theo điều trị viêm phúc mạc.
- Viêm tuỵ cấp sau phẫu thuật. Xử trí bệnh theo điều trị viêm tụy cấp.
Để đăng ký khám và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn Hà Nội, Quý Khách có thể liên hệ tới số ĐT: 0868 688 838
Thạc sĩ Hoàng Văn Bảo
Khoa Phẫu thuật Nhi BV Xanh Pôn